Cây Cỏ lào có tên khoa học là Eupatorium odoratum L. Thuộc Họ Cúc (Asteraceae). Cây còn có tên gọi khác là Cây bớp bớp, Bù xích, Yên bạch, Cây Cộng sản. Cây được dùng trong dân gian để chữa tiêu chảy, kiết lỵ, đau nhức xương, ghẻ lở, phòng và trị đĩa cắn. Bài viết dưới đây sẽ cung cấp thêm nhiều thông tin về loài cây này. 

1. Tổng quan về cây Cỏ lào

1.1. Mô tả dược liệu

Cỏ lào là cây nhỏ, có chiều cao trung bình từ 1 – 2m. Cây mọc thành bụi, phân nhiều cành nằm ngang. Thân tròn, màu rất nhạt, có rãnh và lông nhỏ mịn.

Lá mọc đối, hình gần tam giác, dài 6 – 9cm, rộng 2 – 4cm, gốc thuôn vát, đầu nhọn, mép có răng cưa to. Hai mặt lá cùng màu có lông mịn, dày hơn ở mặt dưới, gân chính 3; cuống lá dài 1 – 2cm.

Cụm hoa mọc ở đầu cành thành ngũ kép, gồm nhiều hoa có mùi thơm, tụ hợp thành hình đầu dài khoảng 1cm, màu vàng lục. Lá bấc xếp thành 3 – 4 hàng, hơi có lông, mào lông có sợi đều; tràng hoa loe dần từ gốc, bao phấn không có tai.

Qủa bế, hình thoi, có 5 cạnh, có lông.

Mùa hoa quả: tháng 1 – 3.

Chú ý: Cỏ lào khi là cây con rất giống với cây hy thiêm.

1.2. Phân bố, sinh thái Cỏ lào

Chi Eupatorium L. là chi lớn trong họ Asteraceae, có khoảng 400 loài, phân bố ở vùng nhiệt đới châu Mỹ, châu Phi và châu Á. Ở Việt Nam, chi này có khoảng 10 loài, trong đó có lẽ Cỏ lào là loài quen thuộc nhất.

Cây thường được gặp ở vùng đồng bằng, trung du và vùng núi thấp. Cây ưa sáng, chịu được hạn và có thể sống được trên mọi loại đất.

1.3. Bộ phận dùng

Cây thường dùng lá và rễ, thu hái quanh năm, dùng tươi.

1.4. Hoạt chất từ Cỏ lào

Trong Cỏ lào có chứa nhiều chất như tinh dầu, tanin, flavonoid, coumarin, alkaloid.

2. Tác dụng dược lý của cây Cỏ lào

Cao chiết với cồn của cả cây cỏ lào trừ rễ có tác dụng chống co thắt cơ trơn gây bởi histamin và acetylcholin trên hồi tràng cô lập chuột lang. Đã có nghiên cứu xác minh tác dụng cầm máu và làm liền sẹo của loại dược liệu này.

Nghiên cứu cho thấy Cỏ lào còn có những tác dụng sau:

  • Làm giảm tiết dịch, giảm mùi hôi nhanh hơn hẳn nhóm đối chứng; tuy nhiên khi dùng tại chỗ trong 3 – 5 phút đầu, thuốc gây cảm giác nóng xót tại vết thương ở mức độ chịu đựng được.
  • Làm rút ngắn thời gian điều trị vết thương do đẩy nhanh quá trình loại bỏ hoại tử, tân tạo mô hạt và liền sẹo. Sẹo hình thành mềm, mịn, không thấy có sẹo co kéo, sẹo lồi. Màu sắc sẹo hồng hoặc nâu nhạt, không thấy sẹo bạc màu.
  • Ức chế sự sinh trưởng in vitro và in vivo của các chủng vi khuẩn gây nhiễm khuẩn vết thương như tụ cầu khuẩn vàng, coliProteus, trực khuẩn mủ xanh. Những chủng này được phân lập từ các bệnh phẩm lâm sàng đều kháng với các loại kháng sinh thông dụng.
  • Những nghiên cứu về nồng độ hydroxyprolin và về hình ảnh siêu cấu trúc cho thấy tại các vết thương điều trị với Cỏ lào, quá trình tổng hợp collagen tiến triển tốt, tốc độ tổng hợp collagen tăng nhanh, đặc biệt tăng cao nhất trong 7 ngày đầu.

3. Công dụng của cây Cỏ lào

Cỏ lào có vị hơi đắng, tính ấm, mùi thơm, có tác dụng sát trùng, cầm máu.

Cây được dùng để chữa tiêu chảy, kiết lỵ, đau nhức xương, ghẻ lở, phòng và trị đĩa cắn. Một chế phẩm từ cao lá được dùng chữa một số bệnh về răng miệng. Cỏ lào còn được dùng chữa bỏng và vết thương phần mềm.

4. Lưu ý

Cỏ Lào là loại cây có độc, dùng quá liều có thể bị trúng độc với những triệu chứng như đau đầu, chóng mặt, buồn nôn.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon